#knowledge

THẾ NÀO LÀ INDIE?

by Trác Ngọc Lĩnh

Là người quan tâm về Label và phát hành nên mình có tìm hiểu 1 ít qua thực tế và sách vở, nay có vài dòng chia sẻ thông tin với các bạn.

Ở các nước có nền công nghiệp âm nhạc thì cơ bản nghệ sĩ được phân loại thành 2 dạng: "Signed" và "Indie". Trong đó "Signed" là các nghệ sĩ có ký kết hợp đồng (do đó gọi là Signed) với hãng đĩa để hợp tác về bất kỳ khía cạnh nào liên quan đến tác phẩm của nghệ sĩ. Đó có thể là hợp đồng sản xuất, tập luyện, biểu diễn, kinh doanh thương mại, phát hành, truyền thông v.v... với các điều khoản, cam kết rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm mỗi bên.

Ví dụ như Limp Bizkit năm 2002 khi thực hiện hợp đồng với hãng đĩa Interscope đã nhận khoản ứng trước 600.000usd (hoặc 1 triệu, chính xác không nhớ rõ vì đọc trong 1 bài interview đã lâu) để sáng tác và ghi âm tại khá nhiều các studio nổi tiếng khác nhau như The Hit Factory, Record Plant.... sản xuất ra album Results May Vary.

Hoặc như LinKin Park sau khi trầy trật không ký được hợp đồng với hãng đĩa nào, may sao đã được giới thiệu bởi Phó chủ tịch và ký hợp đồng với Warner Bros, từ đó được hãng đĩa chi tiền ứng trước làm album, thuê hẳn phức hợp studio huyền thoại NRG Recording ăn ở cả nửa năm và được chỉ định cho nhà sản xuất Don Gilmore để nâng tầm ban nhạc từ 1 đống demo hỗn độn thành lịch sử âm nhạc thế giới như ta đã biết.

Đó là quyền lợi. Về nghĩa vụ thì chi tiết không được công bố nhưng thường là nghệ sĩ phải đi lưu diễn một năm bao nhiêu đó show cho hãng đĩa, trả lời phỏng vấn, xuất hiện trước truyền thông theo yêu cầu của hãng đĩa. Thời đỉnh cao của Nu Metal, nhìn tour date của LinKin ParK mà khiếp: hơn 200 show ở các nơi khác nhau trong 1 năm 365 ngày, tương đương gào thét 2 đêm nghỉ 1 đêm liên tục như thế cho 1 năm.

Sơ sơ như vậy để thấy tại sao nghệ sĩ thế giới luôn luôn tìm kiếm, gửi demo, tạo mạng lưới quan hệ nhằm được hãng đĩa lớn để mắt tới và "Signed", bước chân vào guồng máy công nghiệp để được boosted lên tới nóc qua các hệ thống truyền thông, radio stations, phát hành băng đĩa, và hướng ra quy mô toàn cầu.

Nói nhiều về "Signed" như vậy, để hiểu "Indie" là phần còn lại nằm ngoài các đặc điểm nêu trên của "Signed", chứ không có định nghĩa cụ thể về "Indie" như "Signed". Nôm na có thể hiểu "Indie" là nghệ sĩ Do-It-Yourself, cơ bản nhất là DIY khâu sản xuất và phát hành, band tự giới thiệu tác phẩm mình đến khán giả bằng các phương tiện trong khả năng. Ngày xưa thì nghệ sĩ Indie sẽ tự in ấn băng đĩa và đem bán tại các show diễn của mình, thường là các bar, club nhỏ ở địa phương. Ngày nay thì có thể dễ dàng đưa lên các nền tảng streaming, hoặc tự ký phát hành trên các nền tảng này. Mở rộng ra sau đó là tự tổ chức show, tour quảng bá, đặt truyền thông lên bài v.v.... Nói chung là tự lo A-Z.

Dựa trên hệ thống phân loại thông thường đó của những nền âm nhạc lớn thì Việt Nam thật sự chưa có mối quan hệ lành mạnh và chuyên nghiệp giữa hãng đĩa và nghệ sĩ. Ngay cả các hãng lớn vào VN hiện nay cũng hoạt động theo kiểu dòm ngó cua trong rổ xem con nào bự, quẫy mạnh thì móc ra chào cho cái hợp đồng chủ yếu là truyền thông lấy tiếng cho đôi bên, đưa vào hệ thống phát hành của hãng. Ngoài ra các hoạt động hỗ trợ về tài chính, chuyên môn gần như không có gì đáng kể. Nói đi cũng phải nói lại, nếu hãng đĩa lớn muốn ứng 1 cục tiền cho nghệ sĩ VN để 1 năm sản xuất 1-2 album, lưu diễn mỗi tuần 1 show thôi, thì cũng chưa có nghệ sĩ nào đáp ứng nổi, mà thị trường âm nhạc VN cũng chưa sôi nổi tới mức đó.

Dù sao đi nữa thì vẫn mong có ngày nào đó âm nhạc VN đạt tới tầm chuyên nghiệp và tiêu thụ mạnh như các nền công nghiệp âm nhạc hàng đầu thế giới của Mỹ, Anh, Hàn, Nhật. Nhưng trước tiên và căn cơ thì cả nghệ sĩ lẫn truyền thông cần có kiến thức căn bản về các khái niệm và cách thức hoạt động của nền công nghiệp âm nhạc, để giao tiếp chung hướng tới phát triển và hòa nhập vào âm nhạc thế giới một cách chuyên nghiệp và chắc chắn.

NHỮNG HIỂU LẦM PHỔ BIẾN VỀ NHẠC ROCK 

By Rockfest Vietnam 

Với những đặc điểm đầy phóng khoáng tự do, có thừa sự nổi loạn và khác biệt so với đại đa số các dòng nhạc khác, không ngạc nhiên khi với nhiều người, Rock là món ăn tinh thần khó cảm - khó nghe. Tuy nhiên, quan điểm đó chỉ là sự hiểu lầm khá quen thuộc khi chưa tiếp xúc nhiều với Rock.


Hãy cùng RockFest “giải oan" cho Rock, từ đó có một góc nhìn toàn cảnh hơn về thể loại âm nhạc vô cùng đặc biệt và đã góp phần mang lại nhiều giá trị tích cực với cộng đồng này!

Rock - chỉ là tập hợp của những tiếng ồn? 

Khi nghĩ đến Rock, ấn tượng đầu tiên của nhiều người sẽ là loạt âm thanh lớn, sự dữ dội, những tiếng ồn thay vì giai điệu cụ thể, người trình diễn có phong cách khá dị, gai góc. Và từ đó kết luận Rock không phải thứ âm nhạc dành cho mình. Điều này vẫn đúng với những thể loại nặng đô như Hard Rock hay các dòng Metal. Nhưng không chỉ có vậy, vốn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhạc Blues, Country, cùng sự phát triển đa dạng đến hơn 30 thể loại, Rock vẫn có những khía cạnh từ vui tươi trong sáng đến rất nhẹ nhàng êm ái và đầy tự sự qua các bài hát thuộc dòng Soft Rock, Alternative Rock, Country Rock, Pop Punk…

Không phải là hiếm khi nhiều bài Rock bị khán giả đại chúng nhầm là nhạc Pop hay Ballad bởi giai điệu nhẹ nhàng, dễ nghe. Vậy nên nếu trước giờ bạn chưa mặn mà với Rock, hãy thử “mở lòng” đón chào người bạn mới này, biết đâu thành fan ruột lúc nào không hay 

Nghe Rock gây stress hay xả stress

Những âm thanh max volume, tiếng gào thét, quằn quại, dữ dội từ Heavy metal được xem là gây nên sự khó chịu và nặng nề về mặt cảm xúc, vậy nhưng ngược lại, các nghiên cứu khoa học lại chỉ ra rằng: nếu bạn là một fan ruột của Rock, đặc biệt là Heavy metal, thì thứ âm nhạc dữ dội đó lại chính là “thần dược” giải thoát bạn khỏi những hỗn loạn, rối rắm của tâm trạng và cảm xúc. 

Nếu bạn đang trong cơn giận dữ, nghe những bài Rock mạnh sẽ khiến tâm trạng trở nên bình tĩnh hơn bởi cơn giận được giải tỏa ra một cách dễ dàng và từ đó dần tiêu biến. Rock đồng thời cũng có tác dụng giảm stress hay những triệu chứng cảm xúc tiêu cực, buồn bã. Không những thế, năng lượng bùng nổ từ Rock khiến những người yêu Rock cảm thấy tích cực và được truyền cảm hứng hơn để đương đầu với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống, họ có thể được điều hòa tâm trạng và lên tinh thần sau khi nghe nhạc 

Những ca khúc Rock truyền tải điều gì? 

Không phải chỉ là những câu từ ồn ào và vô nghĩa, nội dung của Rock bao hàm rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, từ chia sẻ những câu chuyện giản đơn thường nhật cho đến những thông điệp lớn lao hướng tới các vấn đề chung của xã hội. Rất nhiều bài hát Rock có sức mạnh tuyệt vời về mặt cảm xúc khi truyền cảm hứng cho hàng triệu khán giả thông qua những ca từ tích cực, có chiều sâu, giúp người nghe tìm thấy sự đồng điệu. 

Một trong những đặc trưng của Rock là lối kể chuyện qua lời bài hát. Lối sáng tác thiên về kể chuyện đã được Chuck Berry - người được xem là “cha đẻ" của Rock & Roll sử dụng từ thời khai sinh của Rock và ngày càng trở nên phổ biến kể từ khi The Beatles bùng nổ trên sân khấu âm nhạc toàn thế giới vào những năm 1960. Cho đến ngày nay, Rock vẫn giữ được đặc trưng này.

Với sự tổng hoà cả về giai điệu đẹp và ca từ ý nghĩa, những bài hát Rock hoàn toàn là sự lựa chọn tuyệt vời khi bạn cần một “chiến hữu" để tâm tình và nạp năng lượng cho tâm hồn! 

JEFF BECK ĐÃ THAY ĐỔI GUITAR NHƯ THẾ NÀO?

Cre: GuitarWorld

Bất cứ khi nào người chơi guitar nói về 'cảm xúc', mọi người đều sẽ có cách giải thích của riêng họ về ý nghĩa chính xác của từ này. Đó là một thuật ngữ trừu tượng và chủ quan. Tuy nhiên, hầu hết đều đồng ý rằng không có người chơi nào thể hiện 'cảm xúc' tuyệt vời hơn Jeff Beck, tay guitar điêu luyện người Anh được mệnh danh là 'tay guitar của các nghệ sĩ guitar'.

Cho dù bạn yêu thích âm thanh dữ dội của chiếc Telecaster của anh ấy trong The Yardbirds, những cuộc chinh phục đầu thập niên 70 với cây Les Paul hay phép thuật từ Strat mà anh ấy thường gắn bó nhiều nhất, những đóng góp của Beck cho mọi thể loại âm nhạc đơn giản là không thể so sánh được.

Ông qua đời vào ngày 10 tháng 1 năm 2023, hưởng thọ 78 tuổi, là một mất mát sâu sắc đối với tất cả những ai biết và yêu mến ông, cũng như đối với tất cả những ai được truyền cảm hứng từ lối chơi và sự sáng tạo bạo dạn của ông. Và trong số rất nhiều lời tri ân sau khi ông ấy qua đời, mỗi người đều tỏ lòng kính trọng với một nhạc sĩ đã đặt tiêu chuẩn cao đến một cách hoàn hảo, có lẽ lời khen ngợi lớn nhất đến từ người bạn thân và đồng đội cũ của Beck, Jimmy Page.

“Chiến thần sáu dây không còn ở đây để chúng ta chiêm ngưỡng câu thần chú mà anh ta có thể thêu dệt nên những cảm xúc phàm trần của chúng ta,” Page nói. “Jeff có thể truyền âm nhạc từ cõi thanh tao. Kỹ thuật của anh ấy là độc nhất. Trí tưởng tượng của anh ấy rõ ràng là vô hạn. Jeff, tôi sẽ nhớ cậu cùng với hàng triệu người hâm mộ của cậu.”

JEFF, JIMMY & ERIC

Beck trở nên nổi tiếng vào năm 1965 với tư cách là người thay thế Eric Clapton trong The Yardbirds - theo lời giới thiệu của Jimmy Page. Ba người chơi đó đã tạo thành nền tảng của phong trào nhạc blues ở Anh, về cơ bản đã trở thành nền tảng của rock guitar. Nhưng cả Page và Clapton đều thừa nhận rằng Beck bằng cách nào đó đã chiếm thế thượng phong, Clapton sau đó gọi Beck là “cầm thủ độc đáo nhất thế giới”.

20 tháng ngắn ngủi của Beck trong The Yardbirds từ tháng 3 năm 1965 đến tháng 11 năm 1966 đã mang lại phần lớn trong số 40 bản hit hàng đầu của nhóm. Anh ấy đã xuất hiện trong album phòng thu đầu tay For Your Love, mặc dù Clapton chịu trách nhiệm về phần lớn công việc guitar, và vào thời điểm phần tiếp theo của nó ra mắt vào cuối năm 65, tình thế đã thay đổi, Beck xuất hiện trên nhiều bản nhạc hơn người tiền nhiệm của anh ấy, người đến thời điểm này đã rời ban nhạc. 

JEFF & JIMMY

Beck's Bolero, tác phẩm mà sau này anh ấy tuyên bố là đồng sáng tác với Page, có một số tác phẩm được đánh giá cao nhất của Jeff từ những giai điệu cao vút, cũng như một số đoạn riff heavy metal đã định hình trước những gì Page sẽ tạo ra với album Led Zeppelin I vào năm 1969.

Những điểm nổi bật khác trong giai đoạn này trong sự nghiệp của Beck bao gồm hai bài hát khác từ Truth gồm Shapes Of Things , một bản làm lại từ The Yardbirds, với những đoạn lead đáng kinh ngạc và một phiên bản tuyệt vời, thấm đẫm chất blues tiêu chuẩn của Willie Dixon trong I Ain’t Superstitious. Và từ The Jeff Beck Group năm 1972, bản giao hưởng sáu dây đầy nước mắt đã được nghe từ Definitely Maybe và, có lẽ đáng chú ý nhất trong tất cả, phong cách thử nghiệm hơn ở phần đầu của Going Down - một bản blues G-minor dài gần bảy phút đã chứng kiến anh ta tuyên chiến với thanh whammy của mình theo những cách mê hoặc nhất.

Một số người thậm chí có thể nói tác phẩm guitar gợi nhớ đến Jimi Hendrix, và Hendrix là một người đánh giá cao Beck, đến mức anh ấy đã mượn một đoạn riff từ Rice Pudding của Jeff Beck Group cho bài hát In From The Storm từ Cry Of Love , album mà anh ấy đang thực hiện trong những tuần trước khi anh ấy qua đời vào tháng 9 năm 1970.

Trong một trong những cuộc phỏng vấn cuối cùng của Beck, khi được hỏi về sự kính trọng của Hendrix đối với ông ấy, Beck nói: “Tôi có thể chết trong hạnh phúc.” 

STRATOCASTER

Album solo thứ ba của Beck, Wired, được phát hành vào năm 1976 như là phần tiếp theo của Blow By Blow, và thường được coi là album chị em của nó. Được sản xuất lại bởi George Martin, đây cũng là một trong những bản phát hành được ngưỡng mộ nhất của Beck.

Thật thú vị, anh ấy đã không viết một bản nhạc nào trên đó - hầu hết các credits dành cho các thành viên ban nhạc mới được tuyển dụng bao gồm tay trống Narada Michael Walden, nghệ sĩ synth điêu luyện của dàn nhạc Mahavishnu là Jan Hammer và tay bass Wilbur Bascomb, đã cho một bản cover Goodbye Pork Pie Hat chuẩn chỉ do nhà tiên phong nhạc jazz Charles Mingus sáng tác để tưởng nhớ nghệ sĩ saxophone Lester Young.

Vào thời điểm mà người chơi guitar thường đảm nhận vai trò lên ý tưởng trong các dự án của họ, chứ đừng nói đến các bản phát hành solo của họ, Beck đã có một sự sáng tạo mới mẻ - cho phép đôi tai của anh ấy quyết định âm nhạc đến từ đâu mà không cần quan tâm đến việc viết phần credit và giảm đi cái tôi.

Trong cuốn tự truyện Beck 01 năm 2016 và phim tài liệu On The Run năm 2018, Beck tiết lộ rằng ông ấy đã nhận được một lá thư từ Charles Mingus, khen ngợi cách diễn giải bài hát của ông ấy. Mingus viết: “Jeff thân mến, tôi thực sự choáng váng khi nghe những gì bạn đã làm.

Bản nhạc này cũng có một số cách sử dụng hiệu ứng thú vị, rất có thể là Bộ điều biến Ring Maestro và fuzz kiểu Octavia được sử dụng một cách đơn giản để giúp tạo ra một hoặc hai giọng nói đặc biệt của riêng họ - đó là dấu hiệu cho thấy thái độ của anh ấy đối với các hiệu ứng nói chung ít được sử dụng trên thông thường ngoài wah, delay và reverb.

“Tôi cố gắng trở thành ca sĩ,” Beck tiết lộ vào năm 2010. “Cây đàn guitar luôn bị lạm dụng với các bộ phận làm méo tiếng và các loại hiệu ứng trông rất là buồn cười, nhưng khi bạn không làm điều đó và chỉ để âm thanh chân thực phát ra, thì sẽ có cả một ma thuật ở đó.”

Khi các bước mở đầu diễn ra, Led Boots chắc chắn là một trong những bước mở đầu hay nhất của Beck - được xây dựng dựa trên những màn up-tempo jam trong thang âm G Mixolydian với thanh whammy bar cực kỳ mạnh mẽ, như được giới thiệu bởi Strat trên bìa album lần này. Oxblood Les Paul hiện đã được chuyển xuống phía sau và các tông màu ở trung tâm của bản nhạc sáng hơn và mượt mà hơn rõ rệt.

Kể từ thời điểm này trở đi, ngoài việc kết hợp với Jackson Soloists vào giữa những năm 80 trong album solo thứ năm Flash và những đóng góp của anh ấy cho bản thu âm Private Dancer của Tina Turner, đàn Strat sẽ đóng vai trò là phương tiện chính để anh ấy thể hiện âm nhạc, trở thành tiếng nói mà anh ấy muốn nói chuyện với thế giới. Ông từng giải thích: “Đàn Strat bao trùm toàn bộ cung bậc cảm xúc của con người, đồng thời lưu ý cách “dùng tremolo cho phép bạn làm bất cứ điều gì, bạn có thể đánh bất kỳ nốt nhạc nào mà nhân loại biết đến”.

Come Dancing, bài hát thứ hai trên Wired, xoay quanh một funk vamp có giai điệu đi từ D thứ đến Bb7, cho phép Beck thỉnh thoảng đi chệch khỏi D blues và chuyển sang thang âm Bb Lydian Dominant để tạo ra một giai điệu du dương. Ngoài ra còn có hiệu ứng quãng tám thấp hơn được khởi động cho phần độc tấu đầu tiên, rất có thể đến từ bộ chia quãng tám Mu-Tron hoặc bộ lọc màu sắc và một số độ trễ lớn cho phần lead thứ hai.

Được sáng tác bởi Jan Hammer, Blue Wind là một trong những sản phẩm thử nghiệm mới của album, bắt đầu bằng G Lydian và sau đó chuyển sang E Dorian blues, kết hợp các kỹ thuật khác nhau như bend đậm đồng quê và hòa âm tự nhiên thành một tuyên bố âm nhạc thực sự độc đáo. Nó tạo nên giai điệu phù hợp cho phần thứ hai do sự kết hợp dẫn đầu của album, với bản hùng ca dài sáu phút rưỡi Sophie đưa người nghe vào cuộc hành trình xuyên qua nỗi u sầu và chìm đắm trong cảm giác hồi hộp cao độ, trước khi Play With Me được đảo lộn nhiều thứ trở nên gần gũi hơn với âm thanh ngoạn mục và do piano dẫn dắt Love Is Green.

Beck thường được nhắc nhở rằng hai kiệt tác giữa thập niên 70 của ông được nhiều người coi là hay như nó dành cho guitar không lời, nhưng ông vẫn khiêm tốn giữ vững lập trường trong suốt sự nghiệp của mình. “Đôi khi mọi thứ trở nên tốt hơn một cách tình cờ,” Beck từng thừa nhận. 

NGÓN TAY MA THUẬT 

Beck chỉ thực hiện ba album solo trong những năm 1980, nhưng anh ấy đã chơi rất sung mãn với tư cách là một nghệ sĩ guitar phiên trong những năm này, cho mượn tài năng của mình trong các bản thu âm của Mick Jagger, Diana Ross và Malcolm McLaren, cũng như khơi dậy mối quan hệ sáng tạo của ông ấy với Rod Stewart - khách mời của ba bài hát trong album Camouflage năm 1984 của ca sĩ và Stewart đã trả ơn cho People Get Ready, đĩa đơn cuối cùng là single Flash do Nile Rodgers sản xuất.

Cũng trong giai đoạn này, anh ấy quyết định loại bỏ hoàn toàn gảy đàn, chuyển từ cách chơi kết hợp sang kiểu chơi ngón tay thuần túy - lớp da sần sùi trên dây theo đúng nghĩa đen khiến anh ấy hòa làm một với nhạc cụ của mình, không có rào cản ở giữa. Như anh ấy đã nói vào thời điểm đó: “Nếu bạn sử dụng gảy đàn, bạn có vài ngón tay thừa và chúng không làm được gì cả, nhưng với năm ngón tay thì bạn có thể làm được mọi thứ”. 

PABLO PICASSO CỦA GUITAR 

Vào buổi bình minh của một thiên niên kỷ mới, Beck đã chọn bắt đầu trò chơi của mình và phát hành nhiều chất liệu solo hơn những gì ông ấy đã làm trong những thập kỷ trước. You Had It Coming của năm 2000 đã báo trước nhiều thử nghiệm điện tử hơn, bằng chứng là nhịp drum 'n' bass cho các bản nhạc chính như Earthquake , Nadia và Rosebud - một lần nữa, cho thấy Beck không ngại đưa cây đàn của mình theo những hướng mới mà không ai khác làm được và nghĩ đến.

Tiếp theo là bản thu âm phòng thu thứ chín của năm 2003, có tên đơn giản là Jeff , giúp anh ấy giành giải Grammy thứ tư về album Instrumental Rock xuất sắc nhất với ca khúc Plan B.

Đó là khoảng thời gian Beck chọn cách cải tiến chiếc Fender Stratocaster đặc trưng của mình. Mẫu ban đầu, được sản xuất từ ​​năm 1990 đến năm 2001, có cổ hình chữ U chunky và pickup Lace Sensor Gold pickups – hai cuộn dây đơn ở cổ và giữa, cộng với một humbucking Dually ở ngựa đàn – có các màu Surf Green, Vintage White and Midnight Purple.

Phiên bản thứ hai, có sẵn từ năm 2001 trở đi và vẫn được sản xuất cho đến ngày nay, có cần đàn hình chữ C mỏng hơn và cuộn dây đơn nam châm gốm Hot Noiseless của Fender, với các nút điều khiển âm thanh tiêu chuẩn thay vì mạch TBX và cuộn dây tách của mẫu ban đầu cùng đai ốc con lăn Wilkinson được đổi chỗ cho một LSR tương đương. Một mẫu Custom Shop đã được ra mắt vào năm 2004 với các thông số kỹ thuật giống hệt với bản cải tiến năm 2001 và cũng vẫn là một phần của dòng Fender.

Trong số các album cuối cùng của anh ấy, có lẽ Emotion & Commotion năm 2010 thể hiện rõ nhất Beck của thời đỉnh cao. Đó là một album cho thấy anh ấy đã quay trở lại quá khứ và tìm thấy vẻ đẹp trong những bài hát không liên quan gì đến guitar. Cách diễn giải của anh ấy về Over The Rainbow của Harold Arlen, ban đầu được viết cho Judy Garland với vai chính của cô ấy trong bộ phim năm 1939 The Wizard Of Oz, gây xúc động đến mức khiến các thành viên trong đám đông rơi nước mắt khi được biểu diễn trực tiếp.

Khả năng tái tạo giai điệu bằng cách sử dụng thanh whammy và các ngón tay của anh ấy sẽ mãi mãi là mẫu mực của lực chạm – cho thấy một nghệ sĩ guitar có thể bao quát được bao nhiêu mặt bằng một âm thanh đơn giản và sống hết mình trong khoảnh khắc. Bộ điều khiển âm lượng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc này, cho phép anh ấy quay lại giai điệu chính của mình thành giai điệu sạch sẽ tinh tế hơn và sau đó quay trở lại mức tăng tốc hoàn toàn bất cứ khi nào ông ấy thấy phù hợp.

Tương tự như vậy, màn trình diễn rung động trái tim của ông ấy của Nessun Dorma, aria từ vở opera Turandot của Puccini , được trình diễn nổi tiếng nhất bởi Luciano Pavarotti, bản thân nó đã là một tiết lộ làm nổi bật một lỗ hổng tinh tế chưa từng được nghe thấy trước đây. Không có gì ngạc nhiên khi Slash thường coi Beck là “Pablo Picasso của guitar”.

Emotion & Commotion cũng đáng chú ý vì sử dụng giọng nữ, với những nghệ sĩ như Joss Stone, Imelda May và Olivia Safe song ca với giai điệu sáu dây trữ tình đầy sâu sắc của riêng anh ấy.

Trên thực tế, không giống như phần lớn các đồng nghiệp của mình, Beck thường xuyên ủng hộ các nữ nhạc sĩ trẻ hơn, chẳng hạn như tay bass người Canada Rhonda Smith (người cũng từng làm việc với Prince), Jennifer Batten (người chơi guitar chính trong tất cả các chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của Michael Jackson từ năm 1987 đến 1997) và tay bass người Úc Tal Wilkenfeld (mới ngoài 20 tuổi khi Beck chiêu mộ cô từ ban nhạc của Chick Corea).

Trong bộ phim tài liệu On The Run năm 2018, Rhonda Smith đã lưu ý cách nghệ sĩ guitar có “sở trường thực sự tuyệt vời” khi chọn các nữ nhạc sĩ “phù hợp với phong cách và loại năng lượng mà ông ấy muốn thể hiện” và cuối cùng là “loại lửa mà ông ấy muốn có".

Album phòng thu cuối cùng của anh ấy với tư cách là một nghệ sĩ solo, Loud Hailer năm 2016 , đã chứng kiến ​​​​anh ấy tuyển Rosie Bones và Carmen Vandenberg từ nhóm nhạc Bones UK ở London. Điều đó khá phi thường khi cả hai nhạc sĩ vẫn còn ở độ tuổi 20 và khá non nớt trong khi ông ấy đang trên đà phát triển từ giữa những năm 70 sau nhiều thập kỷ ở đỉnh cao đến giờ.

Bản thu âm cuối cùng của ông ấy, phát hành vào năm 2021, sẽ dành cho hai bài hát trong album của Ozzy Osbourne Patient Number 9 và 18 hợp tác với nam diễn viên Johnny Depp, xem xét lại các tác phẩm nổi tiếng của The Beach Boys, Killing Joke và Marvin Gaye. Thực tế là ông ấy đã kết thúc chuyến lưu diễn ở Mỹ với Depp chưa đầy hai tháng trước khi anh ấy qua đời không đúng lúc cho thấy nó đến bất ngờ như thế nào.

Cuối cùng, thật buồn khi nghĩ rằng thế giới sẽ không bao giờ được chứng kiến ​​Jeff Beck chơi bài Cause We've Ended As Lovers hay Brush With The Blues, giận dữ trừng phạt cây đàn của ông ấy trong những khoảnh khắc thoáng đãng sau khi đã vuốt ve nó. 

Theo POPSCI

NHẠC METAL TỐT CHO CHÚNG TA

by Lê Q Khánh (Tinhte.vn)

Đối với nhiều người, nhạc metal - đặc biệt là những thể loại con như death metal và grindcore, chẳng khác gì một giai điệu được sáng tác bởi một người sống ở thời tiền sử. Nó hỗn loạn, tàn bạo, hung hăng, ồn ào. Nhưng nhiều nghiên cứu gần đây đã tạo nên một bức tranh nhiều sắc thái hơn đối với thể loại âm nhạc này, khám phá vai trò của nó trong việc điều chỉnh cảm xúc - và to tát hơn là giúp chúng ta tồn tại và vượt qua những thảm họa sắp tới (năng lượng, môi trường, thực phẩm). Có tham vọng quá không? Có lẽ. Nhưng metal lúc nào cũng tràn đầy sự tự tin như thế. 

Điều gì tạo nên một bài hát metal?

Metal nổi lên như một thể loại khác biệt biệt với rock vào đầu thập niên 70 khi các nghệ sĩ nỗ lực tạo ra một thứ âm nhạc nặng hơn. Theo Zett, một nhạc sĩ được đào tạo chính quy và tay guitar của ban nhạc black/thrash Kömmand, “Đầu tiên, metal phải có distorted guitar (distortion là cách xử lý tín hiệu âm thanh để làm thay đổi âm thanh của các nhạc cụ điện). Nó thường có các đoạn riff - các chu kỳ lặp đi lặp lại của các ý tưởng âm nhạc - và thường ‘heavy’, nghĩa là to hoặc ồn.

Ngoài những đặc điểm đó ra, điều gì làm nên một bài hát metal thì thật khó để diễn tả bằng ngôn từ. Sự kết hợp đặc biệt giữa nhịp điệu trống và bass, distortion, và giọng hát — từ tiếng gầm gừ đến cao vút — tạo nên sự khác biệt so với punk và các phong cách âm nhạc khác. Nhưng ngay cả những điều này cũng không bao quát hết metal là gì, bởi vì metal còn nhiều điều hơn thế. 

Người yêu thích metal (metalhead) không giống như người ta thường nghĩ.

Bởi vì metal là một thể loại âm nhạc phức tạp hơn nhiều người nghĩ, người hâm mộ thể loại nhạc này cũng đa dạng không kém, và họ cũng khác với những khuôn mẫu mà đại chúng áp đặt cho họ. Những người yêu thích metal gần như ở khắp mọi nơi trên hành tinh này: 145 quốc gia có ít nhất một ban nhạc metal còn hoạt động trong năm 2021.


P/S: Tấm ảnh trên thể hiện số ban nhạc metal đang hoạt động trên 100.000 dân ở một số quốc gia: các quốc gia phát triển như Phần Lan, Iceland, Thụy Điển có số lượng ban metal nhiều nhất. Dữ liệu từ Encyclopaedia Metallum + The Metal Map.


Và trái với suy nghĩ của nhiều người, không phải metalheads nào cũng giống như những người Viking to con bặm trợn. Laina Dawes, một nhà dân tộc học, hiểu được tại sao những người Mỹ da đen trẻ tuổi lại có xu hướng bị thu hút bơi âm nhạc cường độ cao. Punk, powerviolence, grindcore, và các thể loại khác được biết đến với tính chính trị rõ ràng là một nơi để giải tỏa và bày tỏ cảm xúc dồn nén mang tính cá nhân và hệ thống.


Từ thập kỷ 70 đến đầu những năm 90, rap đáp ứng được nhu cầu đó. Rap vào thời điểm đó cực đoan hơn so với bây giờ, và đó là nơi mà những người da đen trẻ có thể giải tỏa và nói lên được sự tức giận nội tâm. Nhưng nghiên cứu của Dawes cho thấy rằng những bài rap hiện đại với âm thanh sáng sủa (không thô ráp như lúc trước) và lời nhạc tập trung vào nhiều chủ đề hơn, làm cho rap không còn sức hấp dẫn đối với người trẻ như xưa. Theo Dawes thì vào thởi điểm hiện tại, heavy metal có thể là một thể loại nhạc tốt hơn để những người trẻ đạt được những điều vừa nói ở trên.


OK, nhạc metal mạnh vậy liệu có ảnh hưởng xấu hay không?

Cho dù ngày càng có nhiều bằng chứng tích cực về metal nhưng cha mẹ và thầy cô chỉ nghĩ về những người yêu thích metal như những người nuôi dưỡng và thể hiện bạo lực. Chính vì điều này, các nhà nghiên cứu từ nhiều ngành khác nhau đã chú ý rất nhiều đến cách mà metal có thể ảnh hưởng lên tâm trí. Họ tìm hiểu về tính cách của các metalhead, hỏi về xu hướng tự làm hại bản thân và bạo lực, và rủi ro chấn thương đầu liên quan đến việc lắc đầu (headbanging).


P/s: Hình ảnh minh họa về cách lắc đầu đúng.


Các metalhead có những điểm chung, nhưng không giống như người ngoại đạo nghĩ. Theo một nghiên cứu năm 2013 của Đại học Westminster và Đại học HELP ở Malaysia, những người này quan tâm đến việc được người khác xem như là “độc đáo” so với người bình thường. Năm 2015, các nhà tâm lý học ở Đại học Stanford và Cambridge cho rằng những người với tính cách thích “hệ thống hóa” (thường thích phân tích sự vật sự việc và tìm kiếm các mô hình) thích nghe nhạc mạnh hơn và không thích nghe những thể loại “mềm yếu” hơn. Năm 2010, các nhà tâm lý học ở Đại học Heriot-Watt, Scotland, nhận ra rằng headbangers bị thu hút bởi sân khấu, một sở thích mà họ có chung với những người yêu thích nhạc cổ điển. Thứ duy nhất phân biệt các nhóm là tuổi tác: những người trẻ có xu hướng thích Metallica hơn Mozart. Và nghiên cứu năm 2018 của Đại học Macquarie ở Úc cho thấy rằng nghe nhạc metal không khiến người nghe bị kích thích bởi bạo lực.


Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc metal không ảnh hưởng tới chúng ta. Một nghiên cứu 2015 với 377 người đã từng là metalhead vào thập niên 80 cho thấy rằng trong thời trẻ, dù thường có những thói quen nguy hiểm liên quan đến “tình dục, ma túy, và rock-and-roll”, họ hạnh phúc hơn rất nhiều so với những người đồng trang lứa - và tự điều chỉnh bản thân tốt hơn về sau này. Điều này có thể là do khi đứng ngoài văn hóa chung, những người này phát triển ý thức mạnh mẽ về bản thân, và tạo được nhiều tình bạn chân thật hơn.


Nếu hỏi một người tại sao họ lại nghe metal, câu trả lời nhiều khả năng là metal làm cho họ cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ - và một số nghiên cứu cho thấy rằng những giai điệu ‘heavy’ có thể giúp chúng ta kiểm soát cảm xúc. Người nghe cảm thấy tích cực và “được khích lệ” khi bên tai họ là nhạc metal. Nhạc cường độ cao đóng vai trò như một lối ra cho những cảm xúc kìm nén hơn là tạo ra cảm xúc tiêu cực.


Liệu metal có thể giúp chúng ta cứu thế giới?

Khi chấp nhận rằng metal tạo nên những cộng đồng hâm mộ thể loại nhạc này, câu hỏi tiếp theo là liệu metal có giúp chúng ta vượt qua giai đoạn khó khăn sắp tới, nổi cộm nhất là những hậu quả đang chực chờ ập đến do biến đổi khí hậu gây ra. Điểm này có thể hơi to tát một chút nhưng duy trì sự kiên trì và khả năng phục hồi về tinh thần và cảm xúc sẽ rất quan trọng để chúng ta đương đầu với giai đoạn sắp tới và xây dựng một tương lai mạnh mẽ hơn. Xây dựng những xã hội có khả năng hồi phục phụ thuộc vào nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến cả hệ thống xã hội chúng ta đang sống và chính bản thân chúng ta. Do đó, bất kỳ thứ gì giúp con người kiểm soát cảm xúc cũng sẽ giúp chúng ta xây dựng nhiều cộng đồng mạnh mẽ. Xa hơn nữa, metalhead có thể cộng tác với cộng động về tính bền vững để tạo ra sự thay đổi mang tính hệ thống cho con người. Nhiều ban nhạc, đặc biệt ở black metal, thrash, và grindcore, đang tập trung lời nhạc của họ vào các chủ đề như biến đổi khí hậu, mất mát đa dạng sinh học, và sự sụp đổ môi trường.


P/s: Bức ảnh tổng hợp về những chủ đề phổ biến trong lời nhạc của metal.

Một số người hâm mộ metal còn đi xa hơn thế khi tìm hiểu những chủ đề đang nổi cộm trên thế giới, biến mình thành những nhà khoa học. Còn những chuyên gia về tính bền vững có thể nghe những thách thức và mối lo trong những bài hát và chuyển hướng sang những chủ đề đó để giải quyết những vấn đề. Sự kết nối và giao thoa này có thể làm giảm tổn thương, giảm chi phí, và tạo ra nhiều sự bao dung hơn. Cấu trúc âm thanh đa dạng của metal là một kênh lý tưởng để chuyển tải những thông điệp nghệ thuật của những vấn đề phức tạp. 

Những thể loại âm nhạc khác có làm điều này được không? Chắc chắn là được nhưng truyền thống sẵn sàng nói lên những sự thật xấu xí, những điều không ai muốn nghe, khả năng chuyển cảm xúc kìm nén thành sức mạnh, và nhiều cộng đồng trên khắp thế giới làm cho metal trở thành một kiểu mẫu trong đó nghệ thuật tiếp tục cho chúng ta ý nghĩa cuộc sống và sự hỗ trợ tinh thần, cho dù mọi thứ xung quanh chúng ta đang sụp đổ. 

Theo Guardian

NGHE NHẠC ROCK "GẦM GÀO" CÓ THỂ LÀM CHO BẠN... TĨNH TÂM HƠN.

by Thang998 (Tinhte.vn)

Nếu bạn không phải là fan của rock nhưng đã từng thử đến xem một đêm nhạc rock đích thực, một điều chắc chắn là thứ âm nhạc nhiều khi gằn gào, dữ dội, chát chúa đó có thể khiến bạn choáng váng và không bao giờ có ý định đi nghe một đêm rock thêm nữa.


Nhưng, nếu bạn là một fan ruột của rock, đặc biệt là rock “heavy metal”, thì thứ âm nhạc dữ dội nhất đó sẽ là “thần dược” để giải thoát bạn khỏi những hỗn loạn, rối rắm của tâm trạng và cảm xúc.

Một nghiên cứu vừa được công bố trên chuyên san Frontiers in Human Neuroscience (chuyên nghiên cứu về khoa học thần kinh con người) đã phát hiện ra rằng thứ âm nhạc “chát chúa” rock heavy metal thực tế lại có khả năng khiến những người nghe đang trong cơn giận dữ, rối loạn có thể trở nên bình tĩnh một cách bất ngờ. 

Heavy metal, emotional (emo), hardcore, punk, screamo, và một số thể loại âm nhạc khác nữa cùng tạo nên một dòng nhạc, tạm gọi là âm nhạc “chát chúa, dữ dội” – rock.


Dòng nhạc này đặc trưng bởi sự hỗn loạn (có chủ ý trong sắp đặt nghệ thuật) cả về âm thanh và cách trình diễn của nghệ sĩ, được chơi với âm lượng lớn, nhạc “nặng”, gằn, cuồng nhiệt, dữ dội, đầy năng lượng, được thể khiện bởi những giọng ca chắc, khỏe, nhiều cảm xúc, chứa đựng những ca từ kể về sự lo lắng, sự suy sụp, cô độc, tách biệt…


Ấy vậy mà các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng dòng nhạc ấy lại có tác dụng kỳ diệu trong việc vỗ về cảm xúc của người nghe, nếu người nghe đó là những thính giả yêu rock thực sự.

Trước đây, đã có nhiều nghiên cứu về khoa học thần kinh cho rằng dòng nhạc “gằn gào” này dẫn tới việc tâm trạng dễ trở nên hung hăng, gây gổ, và thường khiến thanh niên dễ thực hiện những hành vi nguy hiểm, rơi vào rắc rối với pháp luật.


Vì vậy, nhạc rock trong mắt các nhà nghiên cứu hàn lâm thường không được đưa vào thể loại âm nhạc đỉnh cao với những tác động tinh vi lên trí não, cảm xúc con người.


Tuy vậy, nghiên cứu vừa được công bố bởi đội ngũ do tiến sĩ chuyên ngành tâm lý học người Úc Genevieve Dingle đứng đầu đã tìm ra một kết quả làm nức lòng fan rock. Họ đã làm việc với 39 người nghe rock heavy metal một cách thường xuyên và là những fan ruột của rock, nằm rải rác ở các độ tuổi từ 18-34.


Những người tham gia nghiên cứu trước hết sẽ trải qua 16 phút kích động giận dữ, mỗi người sẽ ngồi kể lại những câu chuyện từng xảy ra trong các mối quan hệ, trong công việc, chuyện tiền bạc… khiến họ mỗi lần nhớ đến là thấy bực dọc cao độ.


Sau 16 phút đó, họ sẽ được chuyển sang nghe những bài hát do chính họ lựa chọn trong vòng 10 phút và tiếp theo nữa là 10 phút hoàn toàn ngồi yên lặng.

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, thứ nhạc “gằn gào” mà họ nghe sau 16 phút bị kích động giúp họ thư giãn hiệu quả không khác gì so với việc ngồi lặng yên.


Tiến sĩ Genevieve Dingle chia sẻ: “Chúng tôi thấy rằng nhạc rock có khả năng điều hòa tâm trạng, đặc biệt là những xúc cảm tiêu cực như nỗi buồn, sự giận dữ, thậm chí, nó còn giúp lên tâm trạng, làm nảy sinh những tình cảm tích cực sau khi người nghe được thư giãn với những bài hát rock mà họ yêu thích”.


“Khi trải qua sự giận dữ, những fan rock đích thực sẽ lựa chọn những bài hát nặng nề, chát chúa, gằn dữ tương ứng với cơn giận của họ, nhưng rồi khi nghe xong, cơn giận nhanh chóng ‘xẹp’ xuống” – tiến sĩ Dingle cho biết thêm.


Kết luận của nghiên cứu tâm lý này là nhạc rock có thể khiến những người yêu rock cảm thấy tích cực và được truyền cảm hứng hơn để đương đầu với những vấn đề tiêu cực xảy ra trong cuộc sống, họ có thể được điều hòa tâm trạng và lên tinh thần sau khi nghe nhạc.

Việc có trở nên kích động, hung hăng, gây gổ hay không phụ thuộc vào cụ thể từng đối tượng với phông văn hóa, cá tính khác nhau, nhưng trong nghiên cứu của tiến sĩ Genevieve Dingle, không có người nào bị kích động hơn sau khi nghe rock dù trước đó họ đã trải qua sự giận dữ.

Âm nhạc là một lựa chọn tuyệt vời để xoa dịu xúc cảm của bạn mà không cần phải mạo hiểm bản thân vào những trò nguy hiểm. Tùy thuộc vào tính cách mỗi người, từng cá nhân sẽ có những lựa chọn riêng đối với dòng nhạc có thể giúp họ xoa dịu tâm trạng. Rock heavy metal là một lựa chọn hiệu quả đối với nhiều người có cá tính mạnh.

Một mục tiêu thứ hai của nghiên cứu là để quan sát xem một người khi đang giận dữ sẽ lựa chọn bài hát nào để nghe. Trong số những người tham gia thử nghiệm, một nửa lựa chọn những nhạc phẩm chứa đựng chủ đề về sự giận dữ, kích động; nửa còn lại lựa chọn chủ đề về nỗi buồn và sự cô độc.

Tất cả họ đều là fan rock nên đều lựa chọn nghe nhạc rock, dù chủ đề khác nhau. Thế nhưng, những bài hát tưởng như chứa đựng nhiều xúc cảm tiêu cực đó, lại giúp người nghe nhanh chóng cảm thấy vui vẻ hơn, khiến họ thấy yêu bản thân, yêu cuộc đời, khỏe mạnh, hưng phấn.

Nhạc rock chát chúa, dữ dằn có thể không phải dành cho tất cả mọi người, nhưng đối với những người yêu rock đích thực, đó chắc chắn là một nguồn an ủi vô cùng hiệu nghiệm. 

CHI TIÊT TẠI ĐÂY

GRINDCORE LÀ GÌ?

by House Of Ygra (Biên soạn và lược dịch bởi Frostbite (Blood Serpent)). 

“Mỗi khi mà Heresy chơi xong, Mick Harris sẽ lên và đánh trống thật nhanh, cố nhanh hơn tay trống của Heresy lúc bấy giờ là Steve Charlesworth. Nó như kiểu là một cuộc thi vậy, và lần tới khi mà Heresy chơi tại Mermaid thì Steve sẽ lại cố mà đánh trống nhanh nhất có thể, nhanh tưởng chừng như không ai có thể nhanh hơn nữa, cho tới khi Mick Harris lại lên diễn cùng Napalm Death và đánh thậm chí còn nhanh hơn cả như vậy. Nhiều lúc chúng tôi chỉ thích đến câu lạc bộ để xem hai người đó đấu trống với nhau. Grindcore đã ra đời ở cái câu lạc bộ nhỏ bé đó theo cái cách như vậy đấy - thứ âm thanh của hai gã đánh trống tỉ thí với nhau hết hiệp này qua hiệp khác, so kè xem ai nhanh hơn ai. Thực ra chúng tôi cũng chẳng biết được quanh đây liệu có người nào có thể chơi nhanh được hơn hai gã này không nữa. ”

(Digby Pearson - nhạc sĩ, nhà sản xuất, người sáng lập ra label nổi tiếng Earache Records - nhớ lại về những ngày tháng đầu tiên của grindcore tại câu lạc bộ The Mermaid, Birmingham)

.

.

.

Vào những năm 1980 của thế kỷ XX, làn sóng punk rock thứ hai (còn được gọi với cái tên quen thuộc UK82) sinh ra tại nước Anh với một thái độ chơi nhạc thẳng thừng. Các ban nhạc thấm nhuần tinh thần và tư tưởng của tầng lớp lao động trung lưu, họ đến từ những khu công nghiệp với những tiếng kim loại thô sơ, máy móc, dập khuôn vô hồn. Đối với họ âm nhạc không cần quan trọng kỹ thuật, họ muốn chơi thật nhanh, thật dữ dội, thật bạo lực và trên hết tất cả là làm sao để thể hiện được một thái độ bất tuân, giận dữ, chống đối với xã hội bấy giờ.

Thứ âm thanh đặc thù và mang nặng tư tưởng tự do vô chính phủ (anarchism) với tiền đề đến từ những đại thụ của anarcho punk và hardcore punk như Discharge, Crass, GBH, The Exploited… là chất xúc tác mạnh mẽ để dẫn đến một bước tiến mới sau một thời gian ngắn, crust punk ra đời - một nhánh của hardcore/anarcho punk gai góc, bẩn thỉu, thô ráp, với sự cải biến về tốc độ và thái độ mang theo ảnh hưởng đến từ heavy và first wave black metal của những band như Venom, Hellhammer, Motörhead. Ba ban nhạc quan trọng nhất trong thời kỳ khai sinh của crust punk là Discharge, Antisect và Amebix. Crust punk có ảnh hưởng mạnh mẽ lên sự hình thành ban đầu của grindcore. Ở bên kia bờ Đại Tây Dương, những người anh em tới từ nước Mỹ cũng chẳng hề kém cạnh với những đại diện tiêu biểu có ảnh hưởng sâu sắc tới những ban nhạc grindcore sau này như Siege, Deep Wound, Genocide (tiền thân của Repulsion)… Thứ âm thanh đặc trưng từ Mỹ đã được nhiều nhóm tại Anh như Unseen Terror và Heresy kế thừa.

Napalm Death trở thành một trong những band nổi bật đầu tiên của grindcore và được nhiều ký giả về metal cho rằng đã đặt cái tên chính thức cho thể loại nhạc này. Digby Pearson, chủ nhân của label Earache Records, cũng là một cái tên quan trọng đóng góp xây dựng thể loại trong thời kì đầu. Từ những ngày còn rất trẻ, Pearson đã rất năng nổ quảng bá dòng nhạc hardcore, nghe và sở hữu nhiều bản demo, tổ chức show từ sớm cho các ban nhạc như Subhumans, Antisect, Disorder, và Napalm Death. Trong khi đó, ngoài lãnh thổ Anh và Mỹ, một thời gian ngắn sau những bản thu âm mang hơi hướm grindcore đầu tiên đã xuất hiện sớm trong giai đoạn 1985-1989, với sự xuất hiện của Blood (Đức), Agathocles (Bỉ), Slashing Death (Ba Lan)…

Với bản chất là dòng nhạc tiến hoá và phát triển từ hardcore punk và crust punk, grindcore được kế thừa những giá trị tinh tuý nhất của những dòng nhạc đi trước: tốc độ cực đại, âm thanh bóp méo muốn xé rách màng nhĩ đến mức trở thành hỗn âm, trở thành phản âm nhạc, trống kết hợp nhuần nhuyễn blast beat cùng với D-beat và skank. Một đặc trưng của dòng nhạc này là các bài hát thường có thời lượng ngắn và rất bùng nổ (trung bình từ 30 giây cho tới 2 phút). Nội dung của các ca khúc thường là các chủ đề liên quan đến chính trị và xã hội, ngoài ra không thiếu những yếu tố gây shock như máu me và kinh dị.

Cũng như các nhánh khác của extreme metal, grindcore trải qua nhiều thử nghiệm, kết hợp, chỉnh sửa phong cách với các dòng nhạc khác từ đó cho ra những sản phẩm mới mẻ và phá cách hơn. Do phần nào có sự tương đồng về nguồn gốc, kỹ thuật, và nội dung nên từ rất sớm death metal thường được kết hợp với grindcore, thể hiện ở những sản phẩm đầu tiên của Nuclear Death, Regurgitation, (tiền thân của O.L.D) Defecation, hay Terrorizer. Goregrind là một nhánh khác của grindcore với những đặc trưng là riff chịu ảnh hưởng bởi death metal, production thô, nội dung là những chủ đề liên quan tới máu me và tử thi, với đại diện tiêu biểu là thời kì đầu của Carcass, Pathologist, hay Dead Infection... Ngoài ra còn rất nhiều sự kết hợp genre khác trong grindcore với những nhánh nhỏ và một số còn mang tính thử nghiệm hơn chẳng hạn như powerviolence, noisegrind, jazzgrind,... Đi vào thế kỉ XXI, grindcore vẫn tìm được chỗ đứng trong extreme metal là một thể loại khốc liệt và sáng tạo nhất, với những ban nhạc tiêu biểu có thể kể đến là Wormrot, Full of Hell, Agoraphobic Nosebleed, Pig Destroyer, Lock-up, Insect Warfare. Thế giới âm nhạc của grindcore là một thế giới vô cùng rộng lớn với lịch sử dày đặc trải dài qua nhiều năm cùng với gốc rễ tới từ sự đúc kết những cảm xúc thô ráp và đầy mạnh mẽ, và nó luôn rộng mở đón chào những người yêu thích thứ âm thanh hoang dã, tốc độ, được hình thành từ những ngõ hẻm tối tăm nhất của lương tri con người.